Điều trị methadone là gì? Các công bố khoa học về Điều trị methadone

Methadone là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị nghiện ma túy, đặc biệt là nghiện heroin. Điều trị methadone có tác dụng giảm triệu chứng cần ma túy, gi...

Methadone là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị nghiện ma túy, đặc biệt là nghiện heroin. Điều trị methadone có tác dụng giảm triệu chứng cần ma túy, giúp người nghiện thuốc thuận tiện hơn trong quá trình cai nghiện. Methadone được sử dụng như một thuốc thay thế, giúp cung cấp một liều lượng ổn định của chất tạo nghiện mà không tạo ra hiệu ứng chóng mặt như heroin. Ngoài ra, methadone còn có tác dụng kéo dài trong cơ thể, giúp ngăn ngừa triệu chứng rút nếu người sử dụng ngừng dùng ma túy.
Methadone là một thuốc được phát triển vào những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong điều trị nghiện ma túy từ những năm 1960. Được phân loại là một thuốc giảm đau và một opiate tổng hợp, methadone có cơ chế hoạt động tương tự như opiates tự nhiên như heroin, nhưng tác động kéo dài hơn và ít gây ghiền.

Khi sử dụng methadone trong điều trị nghiện ma túy, thuốc được cung cấp mỗi ngày dưới dạng một liều nhỏ. Methadone giúp ngăn chặn triệu chứng rút và kháng cự cần heroin hoặc các chất tạo nghiện khác, nhờ vào khả năng kết nối với các receptor opioid trong hệ thống thần kinh trung ương. Methadone không tạo ra cảm giác cao như heroin và có tác dụng kéo dài từ 24 đến 36 giờ, giúp kiểm soát triệu chứng nghiện và hạn chế nhu cầu sử dụng các chất tạo nghiện khác.

Thuốc methadone chỉ có thể được sử dụng dưới sự giám sát của các chuyên gia y tế chuyên về điều trị nghiện ma túy. Liều lượng methadone được tùy chỉnh tùy thuộc vào từng người và nhằm đảm bảo hiệu quả điều trị và giảm thiểu rủi ro gây ghiền. Việc sử dụng methadone trong điều trị cần đi kèm với các phương pháp tâm lý và hỗ trợ, nhằm giúp người nghiện thay đổi hành vi và tái hòa nhập vào xã hội.

Tuy nhiên, methadone cũng có nhược điểm và tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ thường gặp bao gồm tình trạng buồn ngủ, tiêu chảy, buồn nôn, suy giảm ham muốn tình dục và chứng kháng cự. Việc ngừng sử dụng methadone cũng cần được thực hiện dưới sự hỗ trợ và giám sát của các chuyên gia y tế, để giảm thiểu triệu chứng rút và đảm bảo an toàn cho người dùng thuốc.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "điều trị methadone":

Hiệu quả so sánh của các con đường điều trị khác nhau cho rối loạn sử dụng opioid Dịch bởi AI
JAMA network open - Tập 3 Số 2 - Trang e1920622
Tầm quan trọng

Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng chứng minh hiệu quả vượt trội của thuốc điều trị rối loạn sử dụng opioid (MOUD) so với các liệu pháp không dùng thuốc, dữ liệu quốc gia về hiệu quả so sánh của các con đường điều trị thực tế vẫn còn thiếu.

Mục tiêu

Nghiên cứu mối liên kết giữa các con đường điều trị rối loạn sử dụng opioid (OUD) và tần suất tái phát OUD thông qua sử dụng cấp cứu do quá liều và liên quan đến opioid.

Thiết kế, Địa điểm và Đối tượng

Nghiên cứu hiệu quả so sánh hồi cứu này đánh giá các yêu cầu bảo đảm danh tính từ Kho dữ liệu OptumLabs cho các cá nhân từ 16 tuổi trở lên có OUD và bảo hiểm thương mại hoặc Medicare Advantage. Rối loạn sử dụng opioid được xác định dựa trên 1 hoặc nhiều yêu cầu nội trú hoặc 2 hoặc nhiều yêu cầu ngoại trú cho mã chẩn đoán OUD trong vòng 3 tháng; 1 hoặc nhiều yêu cầu cho OUD cùng với mã chẩn đoán quá liều opioid, nhiễm trùng liên quan tiêm chích, hoặc dịch vụ cai nghiện nội trú hoặc dịch vụ lưu trú; hoặc các yêu cầu MOUD từ ngày 1 tháng 1 năm 2015 đến ngày 30 tháng 9 năm 2017. Phân tích dữ liệu được thực hiện từ ngày 1 tháng 4 năm 2018 đến ngày 30 tháng 6 năm 2019.

Phơi nhiễm

Một trong 6 con đường điều trị loại trừ lẫn nhau bao gồm (1) không điều trị, (2) cai nghiện nội trú hoặc dịch vụ lưu trú, (3) chăm sóc y tế hành vi chuyên sâu, (4) buprenorphine hoặc methadone, (5) naltrexone, và (6) chăm sóc y tế hành vi không chuyên sâu.

Kết quả chính và Đo lường

Quá liều liên quan opioid hoặc sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng trong 3 và 12 tháng sau điều trị ban đầu.

Kết quả

Tổng cộng 40.885 cá nhân có OUD (tuổi trung bình [SD], 47,73 [17,25] tuổi; 22.172 [54,2%] nam; 30.332 [74,2%] da trắng) đã được xác định. Đối với điều trị OUD, 24.258 (59,3%) nhận chăm sóc y tế hành vi không chuyên sâu, 6.455 (15,8%) nhận dịch vụ cai nghiện nội trú hoặc lưu trú, 5.123 (12,5%) nhận điều trị MOUD bằng buprenorphine hoặc methadone, 1.970 (4,8%) nhận chăm sóc y tế hành vi chuyên sâu và 963 (2,4%) nhận điều trị MOUD bằng naltrexone. Trong giai đoạn 3 tháng theo dõi, 707 người tham gia (1,7%) đã gặp phải quá liều, và 773 (1,9%) đã sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid. Chỉ điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone có liên quan tới giảm rủi ro quá liều trong 3 tháng (tỉ số nguy cơ điều chỉnh [AHR], 0,24; 95% CI, 0,14-0,41) và 12 tháng (AHR, 0,41; 95% CI, 0,31-0,55) theo dõi. Điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone cũng liên quan giảm sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid trong 3 tháng (AHR, 0,68; 95% CI, 0,47-0,99) và 12 tháng (AHR, 0,74; 95% CI, 0,58-0,95) theo dõi.

Kết luận và Ý nghĩa

Điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone đã liên quan đến việc giảm quá liều và sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid so với các liệu pháp khác. Cần các chiến lược để giải quyết vấn đề thiếu sử dụng MOUD.

#Rối loạn sử dụng opioid #điều trị #lựa chọn điều trị #buprenorphine #methadone #quá liều #chăm sóc y tế #nghiên cứu so sánh
Hạn chế trong điều trị giữa bệnh nhân được phân ngẫu nhiên với phương pháp buprenorphine/naloxone so với methadone trong nghiên cứu đa trung tâm. Dịch bởi AI
Addiction - Tập 109 Số 1 - Trang 79-87 - 2014
Tóm tắtMục tiêu

Khảo sát các đặc điểm của bệnh nhân và thuốc liên quan đến mức độ giữ lại và sử dụng opioids bất hợp pháp tiếp tục trong điều trị methadone (MET) so với buprenorphine/naloxone (BUP) đối với sự lệ thuộc opioids.

Thiết kế, bối cảnh và đối tượng tham gia

Phân tích thứ cấp này bao gồm 1267 cá nhân lệ thuộc opioids tham gia trong chín chương trình điều trị opioids từ năm 2006 đến 2009 và được phân ngẫu nhiên để nhậnBUPhoặcMETtrong 24 tuần.

Phương pháp đo lường

Các phân tích bao gồm các thước đo đặc điểm bệnh nhân tại thời điểm nền (nhân khẩu học; sử dụng rượu, thuốc lá và ma túy bất hợp pháp; sức khỏe tâm thần và thể chất tự đánh giá), liều lượng thuốc và kiểm tra nước tiểu trong quá trình điều trị, việc hoàn thành điều trị và số ngày trong quá trình thử nghiệm 24 tuần.

Kết quả

Tỷ lệ hoàn thành điều trị là 74% choMETso với 46% choBUP(P< 0.01); tỷ lệ trong những người tham giaMETtăng lên 80% khi liều tối đaMETđạt hoặc vượt quá 60 mg/ngày. VớiBUP, tỷ lệ hoàn thành tăng tuyến tính với liều cao hơn, đạt 60% với liều 30-32 mg/ngày. Trong số những người còn lại trong điều trị, kết quả dương tính với opioids trong nước tiểu thấp hơn đáng kể [tỷ lệ odds (OR) = 0.63, khoảng tin cậy 95% (CI) = 0.52–0.76,P< 0.01] trong nhómBUPso với nhómMETtrong 9 tuần đầu tiên của điều trị. Liều thuốc cao hơn có liên quan đến việc sử dụng opiate thấp hơn, đặc biệt là trong nhóm bệnh nhânBUP. Mô hình nguy hiểm tương đối của Cox tiết lộ các yếu tố liên quan đến bỏ dở điều trị: (i)BUP[so vớiMET, tỷ lệ nguy hiểm (HR) = 1.61,CI = 1.20–2.15], (ii) liều thuốc thấp (<16 mg choBUP, <60 mg choMET;HR = 3.09,CI = 2.19–4.37), (iii) sự tương tác của liều và điều kiện điều trị (những người có liềuBUPcao hơn có nguy cơ bỏ dở cao hơn 1.04 lần so với những người có liềuMETthấp hơn, và (iv) trẻ tuổi hơn, gốc Tây Ban Nha và sử dụng heroin hoặc các chất khác trong quá trình điều trị.

Kết luận

Việc cung cấp methadone dường như liên quan đến việc giữ bệnh nhân điều trị tốt hơn đối với sự phụ thuộc opioids so với buprenorphine, như cũng liên quan đến việc cung cấp liều cao hơn của cả hai loại thuốc. Cung cấp buprenorphine liên quan đến việc sử dụng opioids bất hợp pháp ít hơn tiếp tục.

#Opioid lệ thuộc #Methadone #Buprenorphine/Naloxone #Thuốc lá #Heroin #Hoành hành #Điều trị đa trung tâm #Liều thuốc #Khuyến cáo điều trị.
Sử dụng thuốc lá và những nỗ lực bỏ thuốc ở những người đang điều trị methadone Dịch bởi AI
American journal of public health - Tập 91 Số 2 - Trang 296-299 - 2001

MỤC TIÊU: Nghiên cứu này đã xem xét tỷ lệ sử dụng thuốc lá, loại thuốc lá được sử dụng, sự quan tâm trong việc bỏ thuốc và những nỗ lực bỏ thuốc trước đó của những người đang điều trị duy trì bằng methadone. PHƯƠNG PHÁP: Các tư vấn viên đã thu thập các bảng khảo sát từ 84% (550 trên 655) tất cả khách hàng ở một khu vực đô thị gồm 4 quận. KẾT QUẢ: Hầu hết khách hàng (77%) đã hút thuốc lá. Trong số 59 người đã từng sử dụng thuốc lá, chỉ 6 người cho biết đã sử dụng liệu pháp dược lý để bỏ thuốc. Ba phần tư số người hút thuốc hiện tại đã cố gắng bỏ thuốc ít nhất một lần, với trung bình 5 lần cố gắng. Hầu hết những người hút thuốc (80%) rất "hơi" hoặc "rất" quan tâm đến việc bỏ thuốc. KẾT LUẬN: Tỷ lệ bỏ thuốc trong số các khách hàng điều trị duy trì methadone là 12%, so với 50% trên toàn quốc. Để giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong, các can thiệp bỏ thuốc phải được phát triển và phổ biến.

#thuốc lá #methadone #điều trị duy trì #bỏ thuốc #hỗ trợ bỏ thuốc
Hiệu quả của can thiệp thí điểm giảm sử dụng Methamphetamine trên bệnh nhân điều trị Methadone tại Hà Nội
Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của chương trình giảm sử dụng Methamphetamine tại hai cơ sở điều trị Methadone tại Hà Nội. Nghiên cứu thử nghiệm can thiệp cộng đồng đã tuyển lựa 111 bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ trung bình (n = 88) và nguy cơ cao (n = 23) đối với sử dụng Methamphetamine tham gia can thiệp 8 tuần. Kết quả cho thấy tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu dương tính với Methamphetamine và chất dạng thuốc phiện giảm ở cả hai nhóm sau can thiệp. Trong nhóm nguy cơ trung bình, tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu dương tính với Methamphetamine và với chất dạng thuốc phiện giảm lần lượt từ 8% xuống 3,7% (p = 0,07) và 37,5% xuống 12,35% (p ≤ 0,001). Trong nhóm nguy cơ cao, tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu dương tính với Methamphetamine và chất dạng thuốc phiện giảm lần lượt từ 87% xuống 15,8% và từ 43,5% xuống 15,8% (p ≤ 0,001). Nguy cơ trầm cảm, lo âu, căng thẳng trong nhóm nguy cơ trung bình giảm lần lượt từ 21% còn 11%, 21% còn 9,9% và 37% còn 17,3% (p < 0,05). Trong nhóm nguy cơ cao, nguy cơ lo âu và căng thẳng giảm lần lượt từ 52,6% còn 26,3% và 89,5% còn 47,4% (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy can thiệp hành vi đối với sử dụng Methamphetamine trên bệnh nhân điều trị Methadone giúp giảm sử dụng chất và cải thiện sức khỏe tâm thần. Cần có thêm nghiên cứu đánh giá hiệu quả lâu dài sau can thiệp cũng như tính khả thi của việc mở rộng mô hình can thiệp.
#Methamphetamine #ATS #chất dạng thuốc phiện #Methadone #Việt Nam
4. Đa hình nucleotid đơn gen oprd1 trong điều trị methadone thay thế ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện
Nghiên cứu thực hiện phân tích phân bố kiểu gen OPRD1 tại vị trí đa hình nucleotid đơn rs2234918, rs581111, rs529520 và đánh giá mối tương quan với liều duy trì methadone trong liệu pháp điều trị thay thế methadone ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện tại tỉnh Ninh Bình. Nghiên cứu thực hiện trên 400 bệnh nhân được chẩn đoán phụ thuộc vào các chất dạng thuốc phiện, được điều trị Methadone thay thế từ tháng 3 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022 tại tỉnh Ninh Bình. Đa hình nucleotid đơn gen OPRD1 được xác định bằng phương pháp PCR và giải trình tự gen kết quả cho thấy: đa hình nucleotid đơn rs2234918 có tỉ lệ Alen T và C lần lượt là: 69,38% và 30,62%; các kiểu gen tương ứng là TT (48,5%), CT (41,75%), CC (9,75%). Đa hình nucleotid đơn rs581111 có tỉ lệ Alen G và A lần lượt là: 88,62% và 11,38%; các kiểu gen tương ứng là AA (1,75%), AG (19,25%), GG (79%). Đa hình nucleotid đơn rs529520 có tỉ lệ Alen A và C lần lượt là: 15,38% và 84,62%; các kiểu gen tương ứng là AA (3,75%), AC (23,25), CC (73%). Người nghiện chất dạng thuốc phiện mang alen C của SNP rs2234918 có khả năng sử dụng liều duy trì methadone cao (≥ 90mg/ngày), cao hơn so với người không có Alen C với OR = 1,556 (95%CI: 1,049-2,309), người có kiểu gen TT có khả năng sử dụng liều duy trì methadone cao (≥ 90mg/ngày), thấp hơn so với người không có kiểu gen TT với OR = 0,643 (95%CI: 0,433-0,953). Việc xác định kiểu gen của gen OPRD1 ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện điều trị methadone thay thế có thể giúp cá thể hóa điều trị.
#Nghiện chất dạng thuốc phiện #methadone #cá thể hóa điều trị #gen OPRD1 #SNP rs2234918 #SNP rs529520 #SNP rs581111
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐA HÌNH ĐƠN GEN ABCB1 VỚI LIỀU ĐIỀU TRỊ METHADONE THAY THẾ Ở BỆNH NHÂN NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Methadone là thuốc giảm đau thuộc nhóm opioid được sử dụng để điều trị bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện. Tuy nhiên, xác định liều methadone còn khó khăn do có sự khác biệt lớn về đáp ứng điều trị giữa các cá thể. Methadone được vận chuyển vào trong tế bào bởi protein P-glycoprotein (P-pg), được mã hóa bởi gen ABCB1 (MRD1). Gen này được đánh giá có tính đa hình cao với nhiều biến thể di truyền. Các biến thể di truyền này đã được chứng minh có ảnh hưởng tới biểu hiện của P-glycoprotein, do đó ảnh hưởng tới chuyển hóa methadone. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định đa hình nucleotid đơn 1236C>T (dbSNP rs1128503), 2677G>T/A (dbSNP rs2032582), và 3435C>T (dbSNP rs1045642) của gen ABCB1 ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện điều trị methadone thay thế và đánh giá mối liên quan với liều điều trị duy trì. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 400 bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện đang điều trị methadone được xác định các đa hình nucleotid đơn bằng phương pháp giải trình tự gen Sanger. Kết quả: Các cá thể mang biến thể T của đa hình nucleotid đơn 3435C>T (dbSNP rs1045642) yêu cầu điều trị nhóm liều cao (≥ 90 mg/ngày) cao hơn các cá thể không mang biến thể này 1.556 lần (p=0.032). Kết luận: Có sự liên quan giữa biến thể di truyền gen ABCB1 và liều điều trị methadone thay thế. Việc xác định kiểu gen của gen ABCB1 ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện điều trị methadone thay thế có thể giúp cá thể hóa điều trị.
#Nghiện chất dạng thuốc phiện #methadone #cá thể hóa điều trị #gen ABCB1
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC BUPRENORPHINE VÀ METHADONE TẠI BA TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NĂM 2019
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Bài viết này được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm bệnh nhân tham gia điều trị bằng thuốc thay thế tại ba tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam vào năm 2019 bao gồm: Điện Biên, Sơn La và Lai Châu. Thông tin nghiên cứu được lấy thông qua phỏng vấn bệnh nhân trực tiếp tại các cơ sở cấp phát thuốc. Kết quả cho thấy bệnh nhân tham gia điều trị tại 3 tỉnh chủ yếu là nam giới độ tuổi lao động. 70% đối tượng là người thuộc các dân tộc thiểu số như Thái, La Hủ, Mông,... 25.5% bệnh nhân chưa từng được đi học hoặc không biết chữ. Nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng (48.8%). Heroin và thuốc phiện là hai chất được sử dụng nhiều nhất. Bệnh nhân sử dụng heroin có độ tuổi trung bình là 26.21 tuổi. Hành vi sử dụng chất trong 3 tháng trước điều trị chủ yếu là hút và tiêm truyền tĩnh mạch. Có tổng cộng 26 bệnh nhân nhiễm HIV trên tổng số 404 người đang điều trị.
#Đặc điểm #nghiện chất dạng thuốc phiện #buprenorphine #methadone #2019
Thực trạng rối loạn tâm thần ở người bệnh điều trị Methadone khu vực Hà Nội
Rối loạn tâm thần có nguy cơ cao gặp phải ở nhóm bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện, đồng thời có liên quan đến việc tăng nguy cơ tái sử dụng opioid, từ đó làm giảm hiệu quả điều trị của methadone cũng như chất lượng cuộc sống của người bệnh. Nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu  mô tả thực trạng rối loạn tâm thần ở người bệnh điều trị Methadone khu vực Hà Nội. 912 bệnh nhân nghiện Opioid được điều trị tại 5 trung tâm Methadone tại Hà Nội được lựa chọn vào nghiên cứu. Rối loạn giấc ngủ khá phổ biến với 16,8%. Các rối loạn tâm thần khác chiếm tỉ lệ ít hơn với các rối loạn liên quan stress là 14,5%, rối loạn loạn thần là 4,1%, rối loạn nhận thức là 11,2% và rối loạn trầm cảm là 8,7%. Như vậy, rối loạn tâm thần ở bệnh nhân nghiện chất dạng thuốc phiện là phổ biến, cần đánh giá thường xuyên các rối loạn tâm thần trong quá trình điều trị methadone.
#Rối loạn tâm thần #điều trị Methadone
Trầm cảm ở người bệnh điều trị Methadone và Buprenorphine tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: tỷ lệ và các yếu tố liên quan
Nghiên cứu với mục tiêu xác định tỷ lệ hiện mắc trầm cảm và một số  yếu tố liên quan với trầm cảm ở bệnh nhân điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) bằng Methadone và Buprenorphine. Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại 3 cơ sở điều trị nghiện CDTP ở 3 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên và Sơn La, trên 344 bệnh nhân khởi liều từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2019. Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi phỏng vấn hành vi nguy cơ, và thang sàng lọc trầm cảm PHQ-2. Tỷ lệ trầm cảm (điểm PHQ 2 ≥ 2) chung là 7,3%, nhóm người bệnh Methadone 1,7%, nhóm người bệnh Buprenorphine 10,2% (p < 0,05). Các yếu tố liên quan đến trầm cảm: điều trị bằng Buprenorphine (p = 0,019). Nghiên cứu đã cho thấy một tỷ lệ tương đối của trầm cảm ở những bệnh nhân điều trị nghiện CDTP, điều này gợi ý cần có các dịch vụ hỗ trợ phù hợp để có thể nâng cao hiệu quả của chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế tại Việt Nam.
#Methadone #Buprenorphine #trầm cảm #điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện
43. THỰC TRẠNG VÀ HỖ TRỢ TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ METHADONE CỦA NGƯỜI BỆNH TẠI HUYỆN KIM THÀNH TỈNH HẢI DƯƠNG NĂM 2023
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số 5 - Trang - 2024
Thông tin chung: Nghiên cứu với mục đích cung cấp các bằng chứng khoa học về thực trạng tuân thủ điều trị Methadone của người bệnh, từ đó đưa ra kế hoạch triển khai một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều trị, hạn chế việc tái sử dụng ma túy của người bệnh tại Cơ sở điều trị Methadone Kim Thành năm 2023. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 86 người bệnh đang điều trị tại Cơ sở Methadone Kim Thành với thời gian điều trị từ 3 tháng trở lên. Tuân thủ điều trị được đánh giá theo Quyết định số 3140/QĐ-BYT ngày 30/8/2010. Kết quả: Tỷ lệ người bệnh tuân thủ điều trị là 76,7%. Lý do người bệnh bỏ liều chủ yếu là bận công việc (57,1%), quên (14,2%), bị ốm (11,9%), chưa đóng tiền (9,5%), khó khăn trong đi lại (4,8%), lý do khác chiếm 2,4%. Trong quá trình điều trị, người bệnh nhận được sự hỗ trợ chủ yếu từ người thân trong gia đình (97,7%) và cán bộ y tế (90,7%). Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ điều trị của người bệnh là 76,7%. Để thực hiện tuân thủ điều trị tốt, người bệnh cần có sự hỗ trợ từ nhiều phía, trong đó quan trọng nhất là sự hỗ trợ của người thân trong gia đình và cán bộ y tế.
#Tuân thủ điều trị #Methadone
Tổng số: 25   
  • 1
  • 2
  • 3