Điều trị methadone là gì? Các công bố khoa học về Điều trị methadone
Methadone là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị nghiện ma túy, đặc biệt là nghiện heroin. Điều trị methadone có tác dụng giảm triệu chứng cần ma túy, gi...
Methadone là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị nghiện ma túy, đặc biệt là nghiện heroin. Điều trị methadone có tác dụng giảm triệu chứng cần ma túy, giúp người nghiện thuốc thuận tiện hơn trong quá trình cai nghiện. Methadone được sử dụng như một thuốc thay thế, giúp cung cấp một liều lượng ổn định của chất tạo nghiện mà không tạo ra hiệu ứng chóng mặt như heroin. Ngoài ra, methadone còn có tác dụng kéo dài trong cơ thể, giúp ngăn ngừa triệu chứng rút nếu người sử dụng ngừng dùng ma túy.
Methadone là một thuốc được phát triển vào những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong điều trị nghiện ma túy từ những năm 1960. Được phân loại là một thuốc giảm đau và một opiate tổng hợp, methadone có cơ chế hoạt động tương tự như opiates tự nhiên như heroin, nhưng tác động kéo dài hơn và ít gây ghiền.
Khi sử dụng methadone trong điều trị nghiện ma túy, thuốc được cung cấp mỗi ngày dưới dạng một liều nhỏ. Methadone giúp ngăn chặn triệu chứng rút và kháng cự cần heroin hoặc các chất tạo nghiện khác, nhờ vào khả năng kết nối với các receptor opioid trong hệ thống thần kinh trung ương. Methadone không tạo ra cảm giác cao như heroin và có tác dụng kéo dài từ 24 đến 36 giờ, giúp kiểm soát triệu chứng nghiện và hạn chế nhu cầu sử dụng các chất tạo nghiện khác.
Thuốc methadone chỉ có thể được sử dụng dưới sự giám sát của các chuyên gia y tế chuyên về điều trị nghiện ma túy. Liều lượng methadone được tùy chỉnh tùy thuộc vào từng người và nhằm đảm bảo hiệu quả điều trị và giảm thiểu rủi ro gây ghiền. Việc sử dụng methadone trong điều trị cần đi kèm với các phương pháp tâm lý và hỗ trợ, nhằm giúp người nghiện thay đổi hành vi và tái hòa nhập vào xã hội.
Tuy nhiên, methadone cũng có nhược điểm và tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ thường gặp bao gồm tình trạng buồn ngủ, tiêu chảy, buồn nôn, suy giảm ham muốn tình dục và chứng kháng cự. Việc ngừng sử dụng methadone cũng cần được thực hiện dưới sự hỗ trợ và giám sát của các chuyên gia y tế, để giảm thiểu triệu chứng rút và đảm bảo an toàn cho người dùng thuốc.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "điều trị methadone":
Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng chứng minh hiệu quả vượt trội của thuốc điều trị rối loạn sử dụng opioid (MOUD) so với các liệu pháp không dùng thuốc, dữ liệu quốc gia về hiệu quả so sánh của các con đường điều trị thực tế vẫn còn thiếu.
Nghiên cứu mối liên kết giữa các con đường điều trị rối loạn sử dụng opioid (OUD) và tần suất tái phát OUD thông qua sử dụng cấp cứu do quá liều và liên quan đến opioid.
Nghiên cứu hiệu quả so sánh hồi cứu này đánh giá các yêu cầu bảo đảm danh tính từ Kho dữ liệu OptumLabs cho các cá nhân từ 16 tuổi trở lên có OUD và bảo hiểm thương mại hoặc Medicare Advantage. Rối loạn sử dụng opioid được xác định dựa trên 1 hoặc nhiều yêu cầu nội trú hoặc 2 hoặc nhiều yêu cầu ngoại trú cho mã chẩn đoán OUD trong vòng 3 tháng; 1 hoặc nhiều yêu cầu cho OUD cùng với mã chẩn đoán quá liều opioid, nhiễm trùng liên quan tiêm chích, hoặc dịch vụ cai nghiện nội trú hoặc dịch vụ lưu trú; hoặc các yêu cầu MOUD từ ngày 1 tháng 1 năm 2015 đến ngày 30 tháng 9 năm 2017. Phân tích dữ liệu được thực hiện từ ngày 1 tháng 4 năm 2018 đến ngày 30 tháng 6 năm 2019.
Một trong 6 con đường điều trị loại trừ lẫn nhau bao gồm (1) không điều trị, (2) cai nghiện nội trú hoặc dịch vụ lưu trú, (3) chăm sóc y tế hành vi chuyên sâu, (4) buprenorphine hoặc methadone, (5) naltrexone, và (6) chăm sóc y tế hành vi không chuyên sâu.
Quá liều liên quan opioid hoặc sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng trong 3 và 12 tháng sau điều trị ban đầu.
Tổng cộng 40.885 cá nhân có OUD (tuổi trung bình [SD], 47,73 [17,25] tuổi; 22.172 [54,2%] nam; 30.332 [74,2%] da trắng) đã được xác định. Đối với điều trị OUD, 24.258 (59,3%) nhận chăm sóc y tế hành vi không chuyên sâu, 6.455 (15,8%) nhận dịch vụ cai nghiện nội trú hoặc lưu trú, 5.123 (12,5%) nhận điều trị MOUD bằng buprenorphine hoặc methadone, 1.970 (4,8%) nhận chăm sóc y tế hành vi chuyên sâu và 963 (2,4%) nhận điều trị MOUD bằng naltrexone. Trong giai đoạn 3 tháng theo dõi, 707 người tham gia (1,7%) đã gặp phải quá liều, và 773 (1,9%) đã sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid. Chỉ điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone có liên quan tới giảm rủi ro quá liều trong 3 tháng (tỉ số nguy cơ điều chỉnh [AHR], 0,24; 95% CI, 0,14-0,41) và 12 tháng (AHR, 0,41; 95% CI, 0,31-0,55) theo dõi. Điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone cũng liên quan giảm sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid trong 3 tháng (AHR, 0,68; 95% CI, 0,47-0,99) và 12 tháng (AHR, 0,74; 95% CI, 0,58-0,95) theo dõi.
Điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone đã liên quan đến việc giảm quá liều và sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid so với các liệu pháp khác. Cần các chiến lược để giải quyết vấn đề thiếu sử dụng MOUD.
Khảo sát các đặc điểm của bệnh nhân và thuốc liên quan đến mức độ giữ lại và sử dụng opioids bất hợp pháp tiếp tục trong điều trị methadone (
Phân tích thứ cấp này bao gồm 1267 cá nhân lệ thuộc opioids tham gia trong chín chương trình điều trị opioids từ năm 2006 đến 2009 và được phân ngẫu nhiên để nhận
Các phân tích bao gồm các thước đo đặc điểm bệnh nhân tại thời điểm nền (nhân khẩu học; sử dụng rượu, thuốc lá và ma túy bất hợp pháp; sức khỏe tâm thần và thể chất tự đánh giá), liều lượng thuốc và kiểm tra nước tiểu trong quá trình điều trị, việc hoàn thành điều trị và số ngày trong quá trình thử nghiệm 24 tuần.
Tỷ lệ hoàn thành điều trị là 74% cho
Việc cung cấp methadone dường như liên quan đến việc giữ bệnh nhân điều trị tốt hơn đối với sự phụ thuộc opioids so với buprenorphine, như cũng liên quan đến việc cung cấp liều cao hơn của cả hai loại thuốc. Cung cấp buprenorphine liên quan đến việc sử dụng opioids bất hợp pháp ít hơn tiếp tục.
MỤC TIÊU: Nghiên cứu này đã xem xét tỷ lệ sử dụng thuốc lá, loại thuốc lá được sử dụng, sự quan tâm trong việc bỏ thuốc và những nỗ lực bỏ thuốc trước đó của những người đang điều trị duy trì bằng methadone. PHƯƠNG PHÁP: Các tư vấn viên đã thu thập các bảng khảo sát từ 84% (550 trên 655) tất cả khách hàng ở một khu vực đô thị gồm 4 quận. KẾT QUẢ: Hầu hết khách hàng (77%) đã hút thuốc lá. Trong số 59 người đã từng sử dụng thuốc lá, chỉ 6 người cho biết đã sử dụng liệu pháp dược lý để bỏ thuốc. Ba phần tư số người hút thuốc hiện tại đã cố gắng bỏ thuốc ít nhất một lần, với trung bình 5 lần cố gắng. Hầu hết những người hút thuốc (80%) rất "hơi" hoặc "rất" quan tâm đến việc bỏ thuốc. KẾT LUẬN: Tỷ lệ bỏ thuốc trong số các khách hàng điều trị duy trì methadone là 12%, so với 50% trên toàn quốc. Để giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong, các can thiệp bỏ thuốc phải được phát triển và phổ biến.
- 1
- 2
- 3